null
Tham khảo: Top 10 điểm tham quan không thể bỏ lỡ khi du lịch Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc
Lịch sử xây dựng công trình Đô Giang Yển
Lý Băng đã chú trọng khảo sát thực địa và thiết kế Dự án thủy lợi Đô Giang Yển dựa trên đặc điểm địa hình và điều kiện tài nguyên của sông Mân Giang. Dự án Đô Giang Yển được tạo nên bởi ba thành tố: Miệng cá để phân dòng nước, Phi Sa Yển để phân luồng chia lũ và xử lý đất cát, và Bảo Bình Khẩu là cửa vào nước, giúp thực hiện hài hòa các chức năng về kiểm soát lũ lụt, bảo đảm tưới tiêu, lẫn duy trì giao thông đường thủy.
Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, với định hướng xây dựng và mục tiêu dài hạn đưa Thành Đô trở thành thành phố công nghiệp hiện đại. Lượng nước tiêu thụ tập trung ở các khu công nghiệp lớn và cần được cung cấp từ tổng lượng nước đến tập trung ở đầu kênh Đô Giang Yển. Để đảm bảo cung cấp nước liên tục cho ngành công nghiệp và sinh hoạt ở Thành Đô quanh năm, đồng thời đảm bảo dự án sửa chữa đường thủy nội thành Đô Giang Yển được thực hiện đầy đủ, Tứ Xuyên đã cho xúc tiến xây dựng Dự án Chuyển nước Công nghiệp.
Các bộ phận của công trình Đô Giang Yển
Miệng cá: Đê dẫn nước miệng cá hay còn gọi là "miệng cá", là công trình dẫn nước của Đô Giang Yển. Nó được đặt tên như vậy vì phần này có hình dạng giống như miệng cá. Phần này được xây dựng giữa sông Mân Giang và bao gồm một bộ đê hoàn chỉnh nối liền với nhau. Chức năng chính của miệng cá là chia dòng sông Mân Giang thành hai nhánh sông nội giang và ngoại giang. Sông phía Tây được gọi là ngoại giang, thường được gọi là "Kim Mã". Đây là dòng chính của sông Mân Giang, dùng để thoát lũ; phía Đông dọc theo chân núi gọi là nội giang, là kênh dẫn nước nhân tạo, chủ yếu dùng để cung cấp nước tưới tiêu.
Vào thời xa xưa, miệng cá được xây dựng bằng cách xếp chồng những lồng tre chứa đầy sỏi. Do được xây dựng ở giữa sông, sông sẽ tương đối khô vào mùa đông và mùa xuân, nước chảy quanh đường cong phía trên miệng cá và dòng chính và đổ vào nội giang khoảng 60%, lượng nước từ ngoại giang là 40% bị hạn chế bởi các khúc cua. Còn vào mùa mưa, dòng chính chảy thẳng ra sông ngoài, tỷ lệ nước ở sông trong và sông ngoài tự động đảo ngược. Điều này tận dụng địa hình để giải quyết hoàn hảo nhu cầu về tưới tiêu nông nghiệp và nước sinh hoạt của người dân trong thời kỳ khô hạn mùa đông và mùa xuân ở khu thủy lợi nội giang, cũng như vấn đề chống ngập úng trong thời kỳ lũ lụt mùa hè và mùa thu.
Phi Sa Yển: Đập tràn Phi Sa Yển có chức năng vượt trội là giảm lũ, xả cát và điều tiết lượng nước nên còn được gọi là "Phi Sa Yển". Phi Sa Yển được xây dựng ở phần giữa của hệ thống Đô Giang Yển nước khi lũ lụt, nó không chỉ xả nước lũ mà còn tận dụng hiệu ứng xoáy của dòng chảy ra sông ngoài, làm giảm hiệu quả quá trình lắng đọng phù sa ở hai khu vực trong và ngoài Bảo Bình Khẩu. Chức năng chính của Phi Sa Yển là: giữ nước, phân lũ và xả cát.
Bảo Bình Khẩu: là cửa dẫn nước của nội giang, có chức năng như một "cổng kiểm soát" và có thể tự động kiểm soát lượng nước chảy vào nội giang. Nó được tạo thành từ sườn núi dài của núi Tiên Sơn (nay là núi Quan Khẩu và Ngọc Lôi) kéo dài về phía sông Mân Giang. Là một cái họng nhân tạo kiểm soát dòng nước chảy vào sông nội giang. Vì nó trông giống như miệng chai và có chức năng độc đáo nên được đặt tên là Bảo Bình Khẩu.
Việc duy trì và tu bổ công trình Đô Giang Yển
Để duy trì kết cấu và đảm bảo công trình hoạt động tốt, kể từ khi xây dựng từ thời nhà Tần cho tới nay. Nhà nước và chính quyền địa phương đã có nhiều biện pháp tu bổ, trùng tu tích cực. Dưới thời trị vì của Hán Linh đế, một đội chuyên trách về thủy lợi đã được thành lập để chịu trách nhiệm tu bổ và cai quản dự án đập; vào thời nhà Thục Hán, Gia Cát Lượng huy động cả một đội quân để bảo vệ công trình này. Sau đó, ở mỗi triều đại, quan huyện nơi đặt đầu đập sẽ chịu trách nhiệm. Đến thời nhà Tống, một hệ thống tu sửa đều được thực hiện đều đặn hàng năm đã được hình thành và duy trì cho đến ngày nay.
Cấu trúc lồng tre cổ của đập không ổn định dưới tác động của ghềnh sông Mân Giang, lòng sông không thể tránh được tình trạng bồi lắng dù có cơ chế thoát cát. Vì vậy, Đô Giang Yển cần được cải tạo thường xuyên để có thể hoạt động hiệu quả. Vào thời nhà Tống, một hệ thống được thành lập để ngăn dòng nước và sửa chữa vào mỗi mùa đông và mùa xuân khi nước cạn và nông nghiệp ì ạch, hệ thống này được gọi là "Xuyên Đào".
Trong đợt sửa chữa hàng năm, thân đập được sửa chữa, lòng sông được đào sâu. Độ sâu của bờ sông nên được đào đến con ngựa đá chôn dưới đáy bãi biển, và chiều cao của đập phải bằng mực nước trên bức tường đá ở bờ đối diện. Kể từ thời nhà Minh, thanh sắt ngang đã được sử dụng thay cho ngựa đá như một dấu mốc độ sâu tiêu chuẩn của mực nước. Có ba thanh sắt lớn ngang dài nằm ở bờ trái của Bảo Bình Khẩu. Chúng được đúc và thay thế lần lượt vào thời Vạn Lịch của nhà Minh, thời Thông Trị nhà Thanh và năm thứ 16 của Trung Hoa Dân Quốc (1927).
Từ công trình thủy lợi thành điểm du lịch cấp 5A quốc gia
Các điểm tham quan nổi tiếng nhất của Đô Giang Yển:
Dự án bảo tồn nước Đô Giang Yển
Hiện tại, tới du lịch Đô Giang Yển, du khách có thể quan sát sự thần kỳ của hệ thống thủy lợi cổ đại này, đồng thời tìm hiểu về cách thức hoạt động của mỗi bộ phận trong công trình cũng như cảnh sắc xung quanh.
null
Cầu Nam, Đô Giang Yển
Đây là một biểu tượng bên cạnh công trình Đô Giang Yển, là điểm ngắm cảnh và cũng là điểm tham quan cổ kính nổi bật nhất hướng mình ra công trình thủy lợi cổ đại. Tô điểm cho vẻ đẹp ngàn năm của thành phố.
Đền Nhị Vương, Đô Giang Yển
Chính điện của ngôi chùa lần lượt trưng bày các bức tượng của Lý Băng và con trai ông, đồng thời cũng sưu tầm những câu nói nổi tiếng về việc quản lý thủy lợi, khắc chữ của nhà thơ, v.v. Khu phức hợp tòa nhà nằm ở bờ phía Đông của đầu kênh Đô Giang Yển. Ngôi đền có quy mô lớn và cực kỳ yên tĩnh.
Đền Nhị Vương là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng kết hợp giữa đền chùa và vườn tược. Ngôi đền có diện tích khoảng 50.000 mét vuông và tòa nhà chính rộng khoảng 10.000 mét vuông. Đền được chia thành cánh phía đông và phía tây. Cánh phía đông là khu vườn, và cánh phía tây là khu cung điện. Toàn bộ ngôi chùa là một công trình kiến trúc bằng gỗ, ngôi chùa hoàn toàn dựa vào môi trường địa lý tự nhiên và tận dụng lợi thế của núi non.
Đến đây, du khách không chỉ được cảm nhận không khí trong lành, sự thanh tịnh mà còn có thể chiêm ngưỡng trọn vẹn hình ảnh công trình thủy lợi Đô Giang Yển từ trên cao.
Chùa Phúc Long, Đô Giang Yển
Ngôi chùa hiện có ba tầng. Ở chính giữa tiền sảnh có tượng đá Lý Băng được tạc vào thời Đông Hán (25 - 220 sau Công nguyên). Ngoài ra còn có tượng đá của những người thợ xây đập Đô Giang Yển vào thời Đông Hán và Chiếc vạc rồng bay, di tích thời nhà Đường.
Cầu treo An Lan, Đô Giang Yển
Cây cầu được xây dựng trước thời nhà Tống và bị phá hủy bởi chiến tranh vào cuối thời nhà Minh (thế kỷ 17). Tên cổ là "cầu Châu Phổ". Vào năm Xuân Hoa đầu tiên của nhà Tống, nó được đổi thành "cầu Bình Sự". Khi một cây cầu mới được xây dựng ở Gia Khánh của nhà Thanh, nó được đổi tên thành "Cầu An Lan".
Cầu treo ban đầu được đỡ bởi các hàng trụ đá bằng gỗ, dây treo tre dày được dùng để bắc qua sông. Các tấm ván gỗ được đặt lên trên làm mặt cầu, còn dây tre được dùng làm lan can ở cả hai bên. Người ta dụng tre làm vật liệu xây dựng chính của những cây cầu cáp cổ ở phía tây Tứ Xuyên. Vì vậy, cầu treo An Lan còn được gọi là cầu tre, cầu dây, cầu mây tre đan, v.v. Cầu được xây dựng lại vào năm 1974, cách vị trí cũ khoảng 100m, dây cáp tre đã được đổi thành dây cáp thép, trụ cọc gỗ đỡ dây cáp được đổi thành cọc bê tông.
Ngoài ra còn có một số điểm tham quan lân cận bao gồm: Quán Huyện cổ thành, Tháp Khuê Quang, Khu thắng cảnh Hồng Khẩu, Cung điện Viên Minh, Vườn Thanh Khê, Thành Hoàng Miếu, Ngọc Lôi Quan, Công viên Lidui, Tháp Tần Nham, Công viên núi Ngọc Lôi, Khu thắng cảnh Thanh Thành,...
Đừng bỏ lỡ:
Top 10+ cảnh đẹp Tứ Xuyên không thể bỏ lỡ khi du lịch Trung Quốc
Top 15 món ăn ngon nổi tiếng Tứ Xuyên
Tin Liên Quan
Đã đăng Monday, September 16, 2024
Các mẫu bài phát biểu tổng kết cuối năm hay cho doanh nghiệp
Đã đăng Monday, September 16, 2024
Top 10 địa điểm tổ chức gala dinner tại Hà Nội
Đã đăng Thursday, September 12, 2024
Núi tuyết Kiệu Tử tháng mấy có tuyết?
Hàng năm từ cuối tháng 11 đến tháng 3 năm sau, Núi Tuyết KiệuTử bước vào thời kỳ băng tuyết. Trong thời kỳ này, ngọn núi được bao phủ bởi tuyết, tạo thành khung cảnh tuyết rơi tuyệt đẹp.
Có thể bạn sẽ thích
- Hà Nội
- Phú Quốc
- Sapa
- Quy Nhơn
- Elite Tour
- Nhật Bản
- Đà Lạt
- Nha Trang
- Côn Đảo
- Hàn Quốc
- Mộc Châu
- Vinpearl
- FLC
- Hà Giang
- Ninh Thuận
- Ninh Bình
- Đà Nẵng
- Trung Quốc
- Hạ Long
- Phú Yên
- Quảng Ngãi
- Thanh Hoá
- Hội An
- Hoà Bình
- Bình Thuận
- Quảng Bình
- Huế
- Vũng Tàu
- Miền Tây
- Flamingo
- Bali
- Thái Lan
- Singapore
- Malaysia
- Myanmar
- Campuchia
- Hải Phòng
- Đài Loan
- Thụy Sỹ
- Dubai
- Hà Lan
- Cao Bằng
- Pháp
- Tuyên Quang
- Lào
- Hồng Kông
- Áo
- Hy Lạp
- Ý
- Úc
- Nga
- Yên Bái
- Tour Xuyên Việt
- Anh
- Đức
- Tây Ninh
- Ấn Độ
- Tây Ban Nha
- Teambuilding
- Nghệ An